TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế xã hội tháng 7 năm 2020

Diện tích gieo cấy ước đạt 6.812,3 ha, tăng 1,86% so với cùng kỳ; trong đó, rau các loại 3.451,8 ha, tăng 8,1% (tăng do các diện tích được chuyển đổi từ những cây trồng kém hiệu quả trong vụ chuyển sang); Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7 ước tăng 20,57% so với cùng kỳ năm trước;...

 

I. Nông - Lâm - Thuỷ sản

Trong tháng, sản xuất nông nghiệp của tỉnh tập trung vào đẩy nhanh tiến độ sản xuất vụ hè thu, nhằm bảo đảm gieo trồng và thu hoạch đúng lịch thời vụ. Chăn nuôi trong tháng nhìn chung ổn định và có xu hướng phát triển, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Thời tiết ngư trường trong tháng thuận lợi, cùng với việc bắt đầu bước vào vụ khai thác cá nam sản lượng khai thác thuỷ sản tăng khá.

1. Trồng trọt:

* Cây hàng năm: Tính đến ngày 15/7/2020, tiến độ sản xuất vụ hè thu ước đạt 60.467,3 ha, tăng 1,1% (tăng 664,5 ha) so với cùng kỳ, cụ thể:

Cây lương thực: Diện tích gieo trồng ước đạt 46.664,4 ha, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, lúa 39.927 ha, tăng 2,0%; bắp 6.737,4 ha, giảm 1,9% (do giá bắp không cao giảm nên người dân giảm gieo trồng).

Cây có hạt chứa dầu: Diện tích gieo trồng ước đạt 6.060 ha, tăng 2,81% so với cùng kỳ; trong đó, diện tích cây đậu phộng 2.279 ha, tăng 29,8% (chủ yếu gieo trồng ở huyện Bắc Bình); cây mè 3.781 ha, giảm 8,6% (chủ yếu giảm ở Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam; do đầu vụ thiếu nước tưới, nên người dân chủ động cắt giảm diện tích, để chuyển đổi sang các loại cây trồng khác).

Cây thực phẩm: Diện tích gieo cấy ước đạt 6.812,3 ha, tăng 1,86% so với cùng kỳ; trong đó, rau các loại 3.451,8 ha, tăng 8,1% (tăng do các diện tích được chuyển đổi từ những cây trồng kém hiệu quả trong vụ chuyển sang); đậu các loại 3.360,5 ha, giảm 3,86% (diện tích giảm chủ yếu ở Bắc Bình 370 ha, Hàm Thuận Bắc 288 ha, Hàm Thuận Nam 128 ha, các địa phương chủ động cắt giảm ngay từ đầu vụ vì tình hình không đủ điều kiện tưới tiêu).

Cây hàng năm khác: diện tích gieo cấy ước đạt 485,4 ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

* Cây lâu năm: Trong tháng trên địa bàn tỉnh có mưa, là thời điểm thích hợp trồng mới các loại cây lâu năm, tuy nhiên do giá đầu ra một số loại cây chủ lực thấp (cao su, tiêu,…) nên diện tích trồng mới trong tháng chưa nhiều. Diện tích, sản lượng một số cây chủ lực của tỉnh như sau:

- Thanh long: Đang ở thời điểm thu hoạch chính vụ, tuy đến thời điểm này hầu hết diện tích lượng nước tưới bảo đảm, nhưng do ảnh hưởng của việc thiếu nước từ tháng trước, một số diện tích bị top cành đang hồi phục nên năng suất thu hoạch đầu vụ thấp, mặc dù giá bán khá cao so với tháng trước nhưng nhiều nhà vườn không có hàng để bán. Đến thời điểm 10/7/2020 toàn tỉnh có 9.666,3 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap; trong đó, Hàm Thuận Nam 6.057,0 ha, Hàm Thuận Bắc 2.795,5 ha, Bắc Bình 482,7 ha, thành phố Phan Thiết 89,8 ha, Hàm Tân 58,8 ha, La Gi 147,1 ha, Tuy Phong 35,4 ha.

- Cây điều: Nhà vườn đang tập trung chăm sóc, bón phân và tiến hành trồng mới. Hiện đã kết thúc vụ thu hoạch, giá điều năm nay thấp hơn so với cùng kỳ, tuy nhiên vẫn ở mức có lợi cho người trồng. Cây điều đang có khuynh hướng tập trung phát triển diện tích ở một số huyện phía nam như: Hàm Tân, Đức Linh và Tánh Linh (nhiều nhà vườn thay thế giống điều truyền thống bằng giống cao sản); các địa phương phía bắc như: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc phát triển chậm do phần lớn diện tích đất cát kém màu mỡ, năng suất thấp, hiệu quả cây điều kém. Riêng khu vực thành phố Phan Thiết và thị xã La Gi diện tích giảm do một số diện tích nằm trong vùng quy hoạch và trình trạng san lắp mặt bằng để chuyển thổ cư.

- Cao su: Đang vào vụ thu hoạch chính, thị trường xuất khẩu cũng như giá bán đầu ra vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến tích cực, dự ước trong thời gian đến diện tích trồng mới trên địa bàn tỉnh không tăng.

- Cây tiêu: Nhà vườn tiếp tục chăm sóc diện tích hiện có, do trong những năm gần đây giá tiêu ở mức thấp, tình hình sâu bệnh cũng khá phức tạp nhất là bệnh chết nhanh chết chậm, không có thuốc đặc trị, nhiều nhà vườn ở Tánh Linh, Đức Linh và Hàm Tân chưa dám mạnh dạn đầu tư phát triển thêm diện tích.

- Cà phê: Chuẩn bị vào mùa thu hoạch, tập trung chủ yếu ở Hàm Thuận Bắc, Tánh Linh và Đức Linh; đến thời điểm 10/7/2020 có 2.315,5 ha, đây là một trong những cây phát triển mới trong những năm gần đây.

Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể,…

* Tình hình dịch bệnh:

- Cây lúa: Bọ trĩ gây hại 1.210 ha, tăng 511 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Nam, Đức Linh và thị xã La Gi). Ốc bươu vàng gây hại 392 ha, giảm 151 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố huyện Tánh Linh, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình. Sâu đục thân 388 ha, giảm 114 ha so với cùng kỳ năm trước; phân bố huyện Tánh Linh và thị xã La Gi). Bệnh đạo ôn lá 1.080 ha, giảm 251 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc). Chuột gây hại 300 ha (phân bố tại huyện Đức Linh). Rầy nâu 700 ha, tăng 521 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Đức Linh). Sâu cuốn lá 294 ha, giảm 229 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Tánh Linh và Hàm Tân). Bệnh bạc lá, giảm 101 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Tánh Linh và thị xã La Gi). Bệnh đạo ôn cổ bông là 100 ha, tăng 100 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Đức Linh).

- Cây mì: Bệnh khảm lá virus gây hại 1.008 ha, tăng 691 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Tân, Hàm Thuận Nam).

- Cây thanh long: Bệnh nám vàng cành là 4.014 ha, tăng 2.101 ha so với kỳ trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, La Gi, Bắc Bình). Bệnh thối rễ tóp cành 1.537 ha, tăng 1.143 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, La Gi, Bắc Bình). Bệnh đốm nâu là 2.010 ha, giảm 1.083 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, La Gi). Bệnh thán thư cành, quả là 339 ha, giảm 305 ha so cùng kỳ năm trước (phân bố tại các huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình và thị xã La Gi).

- Cây điều: Diện tích nhiễm bệnh bọ xít muỗi 49 ha, giảm 144 ha so với cùng kỳ năm trước; diện tích nhiễm bệnh thán thư là 40 ha, giảm 765 ha so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu diễn ra ở Hàm Tân, Phan Thiết, La Gi).

- Cây bắp: Sâu keo mùa thu là 839 ha, giảm 748 ha so với cùng kỳ năm trước (phân bố tại huyện Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình).

* Tình hình tưới tiêu vụ hè thu 2020: Từ ngày 15/6/2020, trên địa bàn tỉnh đã có mưa, lượng nước hữu ích các hồ chứa trong tỉnh đạt 32,84 triệu m³, đạt 12,7% thiết kế. Ngoài việc tiếp tục ưu tiên cấp nước cho sinh hoạt, hiện nay các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh đã đáp ứng được 100,7% kế hoạch tưới cây thanh long (19.938 ha/19.791 ha kế hoạch); lượng nước còn lại được điều tiết phục vụ cho sản xuất cây hàng năm đạt 90,0% so với kế hoạch sản xuất (28.915 ha/32.095 ha kế hoạch).

2. Chăn nuôi:

Đàn trâu có khuynh hướng giảm nhẹ; đàn bò phát triển ổn định so với cùng kỳ; chăn nuôi lợn đang phát triển trở lại, giá đầu vào đáp ứng được yêu cầu người chăn nuôi có lãi, nhiều trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi tiếp tục tăng quy mô; chăn nuôi gia cầm phát triển khá, môi trường nuôi của các cơ sở được tăng cường công tác vệ sinh phòng dịch bệnh, giá bán các loại gia cầm nhìn chung ổn định.

Tính đến ngày 15/7/2020, đàn trâu 8.830 con, giảm 1,3% so với cùng kỳ; đàn bò 168.900 con, tăng 1% so cùng kỳ; đàn lợn 273.100 con, tăng 7,9% so với cùng kỳ (trong đó, doanh nghiệp chiếm 32% trong tổng đàn, trang trại và các nông hộ chiếm 68% trong tổng đàn); đàn gia cầm 3.770 ngàn con, tăng 12,5% (trong đó, đàn gà 2.490 ngàn con, tăng 17,5% so với cùng kỳ).

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật (tính đến ngày 15/7/2020):

Trong tháng không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm cúm gia cầm, lở mồm long móng ở gia súc, bệnh tai xanh trên heo; một số bệnh truyền nhiễm có xảy ra trên gia súc, gia cầm nhưng chỉ dừng lại ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch.

- Công tác tiêm phòng:  Tổ chức tiêm phòng 3.876.807 liều vắc xin; trong đó, đàn trâu bò 340 liều, đàn heo 48.991 liều, đàn gia cầm 3.826.780 liều; luỹ kế 7 tháng đã tiêm phòng 15.573.436 liều vắc xin; trong đó, đàn trâu bò 80.488 liều, đàn heo 249.616 liều, đàn gia cầm 15.238.795 liều.

- Kiểm dịch động vật: Kiểm dịch 86.282 con heo, 541 con trâu bò, 151.600 con gia cầm, 3.300 kg thịt dê, 3.236.900 quả trứng gia cầm; lũy kế 7 tháng đã kiểm dịch 699.262 con heo, 5.423 con trâu bò, 2.018.314 con gia cầm, 208 con dê, 25.051 kg thịt dê, 16.940.380  quả trứng gia cầm.

- Kiểm soát giết mổ: Kiểm soát giết mổ 34 con trâu bò, 2.087 con heo, 6.320 con gia cầm, 165 con dê; luỹ kế 7 tháng đã kiểm soát 268 con trâu bò, 16.982 con heo, 38.702 con gia cầm, 1.133 con dê.

3. Lâm nghiệp:

- Công tác trồng rừng:  Trong tháng, diện tích rừng trồng mới 90 ha, giảm 19,2% so với cùng kỳ. Diện tích rừng trồng được chăm sóc 4.151 ha; trong đó, rừng trồng phòng hộ 25 ha và rừng trồng sản xuất 4.126 ha. Các đơn vị chủ rừng gieo tạo 300 nghìn cây giống; lũy kế 7 tháng 2.725 nghìn cây, đạt 129,7% kế hoạch năm. 

- Công tác phòng chống cháy rừng:  Trong tháng không xảy ra cháy rừng, cháy thực bì dưới tán lá rừng trên địa bàn tỉnh; lũy kế 7 tháng đã xảy ra 41 trường hợp, với diện tích 67,0 ha cháy thực bì dưới tán lá rừng, không gây thiệt hại về rừng.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Trong tháng đã phát hiện 28 vụ vi phạm lâm luật; lũy kế 7 tháng có 151 vụ. Tổng số vụ vi phạm đã xử lý trong tháng 33 vụ, số lâm sản tịch thu 18,2 m3 gỗ; luỹ kế 7 tháng số vụ xử lý 155 vụ (trong đó, xử phạt vi phạm hình sự 5 vụ, hành chính 150 vụ); tịch thu 37 xe máy, 2 xe trâu bò kéo, 1 ghe, 22 phương tiện khác và 142,6 m3 gỗ các loại. Số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách 970,3 triệu đồng. Tổ chức giao khoán bảo vệ rừng, với diện tích năm 2020 đạt 131.292 ha, so với kế hoạch đạt 108,6%.

4. Thuỷ sản:

- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Ước trong tháng đạt 259,7 ha, giảm 1,5% so tháng cùng kỳ; luỹ kế 7 tháng ước đạt 1.588,5 ha, giảm 3,5% so với cùng kỳ; nguyên nhân do tình hình thời tiết không thuận lợi, nắng hạn kéo dài, tình hình nuôi cá nước ngọt gặp nhiều khó khăn ở các khu vực hồ đập, do lượng nước thiếu cục bộ.

- Sản lượng nuôi trồng: Ứớc trong tháng đạt 1.248,5 tấn, giảm 2,2% so cùng kỳ; lũy kế 7 tháng ước đạt 7.958,5 tấn, giảm 2,5% so cùng kỳ (trong đó, cá các loại 3.155 tấn, giảm 2,7%; tôm nuôi nước lợ 4.769 tấn, giảm 2,4%); nguyên nhân giảm do ảnh hưởng của thời tiết, nắng nóng kéo dài, nên hộ nuôi chỉ thả nuôi mật độ thưa.

- Sản lượng khai thác: Thời tiết ngư trường trong tháng thuận lợi; bước vào đầu vụ cá nam các loại hải sản xuất hiện nhiều như: cá cơm, hải đặc sản đã bắt đầu xuất hiện rải rác. Các nghề khai thác như rê nổi, vây, câu, lặn, kéo, lồng bẫy đánh bắt đạt năng suất ổn định; các nghề khác pha xúc, mành, lưới chụp,... hoạt động ít hiệu quả hơn. Ngư trường hoạt động chủ yếu tại vùng lộng, ven bờ trong tỉnh và lân cận, khu vực đảo Côn Sơn, giàn khoan, Trường Sa và Nhà giàn ĐK1,...

Sản lượng khai thác trong tháng ước đạt 24.075,2 tấn tăng 3,11% so tháng cùng kỳ; lũy kế 7 tháng ước đạt 118.596,2 tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ (trong đó, khai thác biển ước đạt 118.251 tấn, tăng 1,6%).

- Năng lực đánh bắt: Số lượng tàu cá đóng mới được đầu tư đồng bộ, hiện đại. Tính đến ngày 01/6/2020, toàn tỉnh có 6.532 chiếc, với tổng công suất 1.059.358 CV, bình quân 162,2 CV/chiếc. Trong đó, tàu có công suất từ 90 CV trở lên có 3.299 chiếc, tăng 14,9% so với cùng kỳ. Trong những năm qua, ngư dân Bình Thuận tận dụng nhiều nguồn vốn đầu tư, trong đó chủ yếu từ nguồn theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP để đóng tàu công suất lớn, phục vụ khai thác xa bờ; tính đến nay đã có 114 tàu cá đóng mới với tổng công suất 80.000 CV, nhưng chỉ 40 tàu hoạt động có lãi, còn lại là hòa vốn và thua lỗ.

Nhóm tàu công suất lớn từ 90 CV trở lên ngày càng tăng đã phản ánh sự chuyển dịch mạnh mẽ về số lượng, về công suất; là lực lượng khai thác thủy sản biển chủ lực trong thời gian gần đây, góp phần tăng trưởng trong khai thác biển của địa phương và giữ vững bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia.

         - Sản xuất giống thuỷ sản: Ước trong tháng sản xuất 2,2 tỷ tôm post, tăng 2,3% so với tháng cùng kỳ; lũy kế 7 tháng ước đạt 13,6 tỷ post, giảm 9,4% so với cùng kỳ năm trước; sau nhiều tháng liên tục giảm, tình hình sản xuất tôm giống trong tháng có dấu hiệu phục hồi. Tỉnh tiếp tục tăng cường hiệu quả trong quản lý sản xuất, cung ứng giống thủy sản, tiến hành quy hoạch lại các trại sản xuất giống trên địa bàn tỉnh để có thể chủ động trong việc cung cấp lượng con giống có chất lượng tốt cho người nuôi thương phẩm trong tỉnh. Bên cạnh đó, tăng cường công tác kiểm tra chất lượng tôm giống cũng như các đối tượng giống thủy sản khác; thường xuyên kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh giống thủy sản trên địa bàn tỉnh.

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Trong tháng có 36 vụ vi phạm xảy ra (trong đó, 4 vụ sử dụng tàu cá không đăng ký, không đăng ký lại, 4 vụ thông báo không đầy đủ các thông tin theo quy định cho tổ chức quản lý cảng cá trước khi vào cảng cá theo quy định, 8 vụ không chứng chỉ máy trưởng, thuyền trưởng, 13 vụ thuyền viên trên tàu cá không có tên trong sổ danh bạ thuyền viên tàu cá, 7 vụ tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15 m trở lên không cập cảng cá có tên trong danh sách cảng cá chỉ định để bốc dỡ thủy sản). Lũy kế 7 tháng đã xảy ra 163 vụ vi phạm (trong đó 29 vụ không đăng ký tàu cá, 22 vụ không chứng chỉ thuyền trưởng, 40 vụ thuyền viên trên tàu cá không có tên trong sổ danh bạ thuyền viên tàu cá, 21 vụ tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15 m trở lên không cập cảng cá có tên trong danh sách cảng cá chỉ định để bốc dỡ thủy sản,...); qua 7 tháng không có tàu cá nào của tỉnh vi phạm vùng biển nước ngoài.

II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp:

Trong tháng 7, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện và ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải vẫn duy trì mức tăng trưởng cao. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7 ước tăng 20,57% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành khai khoáng tăng 1,32%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,12%; sản xuất và phân phối điện tăng 23,47%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,15%.

Luỹ kế 7 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 15,79% so với cùng kỳ; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ, tăng 20,33%; ngành khai khoáng tăng 9,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,01%; ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,08%.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 7 tháng đầu năm ước đạt 20.524,9 tỷ đồng, đạt 56,36% kế hoạch, tăng 9,83% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, công nghiệp khai khoáng 411,3 tỷ đồng, tăng 10,48%; công nghiệp chế biến chế tạo 9.462,2 tỷ đồng, tăng 0,89%; sản xuất và phân phối điện 10.479,7 tỷ đồng, tăng 19,42%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 171,5 tỷ đồng, tăng 5,66%.

Các sản phẩm sản xuất trong 7 tháng tăng so với cùng kỳ gồm: Cát sỏi các loại tăng 5,54%, đá khai thác tăng 9,59%, muối hạt tăng 51,61%, thủy sản đông lạnh tăng 10,42%, hạt điều nhân tăng 29,34%, nước khoáng tăng 4,55%, gạch các loại tăng 6,98%, nước máy sản xuất tăng 5,12%, điện sản xuất tăng 20,85%, đồ gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 12,4%, thức ăn gia súc tăng 14,36%. Sản phẩm giảm gồm: Thủy sản khô giảm 18,13%, nước mắm giảm 5,15%, quần áo may sẵn giảm 4,56%, sơ chế mủ cao su giảm 11,39%, giày dép các loại giảm 19,41%.

Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp cơ bản được duy trì ổn định, phần lớn các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19. Các doanh nghiệp đã có kế hoạch cắt giảm lao động và đang lập hồ sơ danh sách người lao động cần được hỗ trợ theo Nghị quyết số 42/NQ-CP.

 

2. Đầu tư phát triển:

Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 539,2 tỷ đồng, tăng 91,4% so với cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng đạt 1.950 tỷ đồng, tăng 39,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 48,6% so với kế hoạch năm 2020. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 1.562,9 tỷ đồng, tăng 46,3%, đạt 48,3% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện là 345,9 tỷ đồng, tăng 18,5%, đạt 49,8% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã là 41,2 tỷ đồng, tăng 5,6%, đạt 48,5% kế hoạch năm.

Tiếp tục thực hiện hiện các dự án trọng điểm của tỉnh (theo Nghị quyết số 93/NQ-HĐND, ngày 02/12/2019 của HĐND tỉnh về kế hoạch đầu tư công và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh năm 2020); trong đó, đã quy định danh mục các công trình trọng điểm năm 2020 gồm có 6 công trình. Luỹ kế 7 tháng, các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án trọng điểm của tỉnh đã được quan tâm triển khai thực hiện; được ưu tiên bố trí vốn; định kỳ hàng tháng, rà soát đánh giá tiến độ thực hiện của từng dự án, giải quyết kịp thời các vướng mắc khó khăn,…

3. Đăng ký kinh doanh:

Tính từ ngày 15/6 đến ngày 20/7/2020, có 115 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 18,55% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký mới là 1.146,47 tỷ đồng, tăng 18,39% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp đã giải thể 18 doanh nghiệp, tăng 2,5 lần so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 20 doanh nghiệp, tăng 42,85% so với cùng kỳ; đăng ký thay đổi loại hình 126 doanh nghiệp, tăng 29,89% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 19 doanh nghiệp, tăng 58,33% so với cùng kỳ.

Lũy kế 7 tháng (tính đến ngày 20/7/2020), có 743 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 246 đơn vị trực thuộc), tăng 4,06% so với cùng kỳ; vốn đăng ký 5.532,37 tỷ đồng, giảm 15,02% so với cùng kỳ; đã giải thể 118 doanh nghiệp (trong đó có 57 đơn vị trực thuộc), giảm 25,31% so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 207 doanh nghiệp (trong đó có 43 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ; đăng ký thay đổi loại hình 653 doanh nghiệp (trong đó có 135 đơn vị trực thuộc), tăng 2,99% so cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 85 doanh nghiệp (trong đó có 22 đơn vị trực thuộc), giảm 1,16% so với cùng kỳ.

4. Đăng ký đầu tư:

Trong tháng 7, trên địa bàn tỉnh có 03 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, với tổng diện tích đất 13,94 ha, tổng vốn đăng ký 1.012,6 tỷ đồng. Lũy kế 7 tháng (tính đến ngày 17/7/2020), có 28 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, giảm 28 dự án so với cùng kỳ; với tổng diện tích đất 425,09 ha, bằng 97% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký 6.471,39 tỷ đồng, tăng 86% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng không có dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động và thu hồi 01 dự án. Lũy kế 7 tháng (tính đến ngày 17/7/2020), có 07 dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động và 05 dự án bị thu hồi. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng. Tỉnh cũng đã đối thoại với doanh nghiệp nghe báo cáo tình hình khó khăn trong sản xuất kinh doanh và triển khai thực hiện các chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trên địa bàn.  

IV. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, giá cả:

Trong tháng các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường tạo thuận lợi cho việc quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu. Tỉnh đã tổ chức Hội nghị kết nối cung cầu hàng hoá 4 tỉnh Bình Thuận, Vĩnh Long, Hậu Giang, Tây Ninh năm 2020; tham gia Hội chợ triển lãm ngành Công Thương khu vực miền Trung - Tây Nguyên; tham dự Hội nghị ngành Công Thương các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam. Đồng thời hưởng ứng “Tháng khuyến mại tập trung quốc gia 2020-Vietnam Grand Sale 2020” trong suốt cả tháng 7/2020 nhằm kích cầu tiêu dùng nội địa do Bộ Công Thương phát động; tổ chức Phiên chợ hàng Việt về miền núi tại huyện Tuy Phong (thời gian tổ chức từ ngày 03-05/7/2020).

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 7 ước đạt 4.787,4 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,57% và tăng 0,41% so với tháng cùng kỳ. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 3.282 tỷ đồng, tăng 2,76% so tháng trước và tăng 3,78% so với tháng cùng kỳ; dịch vụ ước đạt 531,9 tỷ đồng, tăng 1,16% so tháng trước và tăng 1,88% so tháng cùng kỳ; lưu trú, ăn uống ước đạt 973,5 tỷ đồng, tăng 2,68% so tháng trước và giảm 10,1% so tháng cùng kỳ. Luỹ kế 7 tháng, ước đạt 31.780 tỷ đồng, giảm 2,62% so cùng kỳ năm trước.

Công tác quản lý thị trường được tăng cường nhiều mặt kiểm tra kiểm soát chặc chẻ, quản lý địa bàn, nắm tình hình giá cả, biến động của thị trường qua đó phát hiện nhanh, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong tháng 6 năm 2020, đã kiểm tra 249 vụ, phát hiện và xử lý 50 vụ vi phạm; luỹ kế 6 tháng năm 2020 đã kiểm tra 1.038 vụ, phát hiện và xử lý 158 vụ vi phạm, đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 1.441,4 triệu đồng.

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 so với tháng trước tăng 0,3%; so với tháng cùng kỳ năm trước tăng 4,37%; so với tháng 12/2019 giảm 0,42%. Bình quân 7 tháng năm 2020 tăng 4,54% so bình quân 7 tháng năm 2019.

         So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 04 nhóm hàng tăng: Giao thông tăng 4,54%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,22%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,17%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,06%. Có 04 nhóm hàng hoá giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,24%; đồ uống và thuốc lá giảm 0,08%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,08%; may mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,02%. Có 03 nhóm hàng hoá và dịch vụ vẫn giữ mức ổn định không tăng, không giảm: Giáo dục; bưu chính viễn thông; thuốc và dịch vụ y tế.

 

2. Du lịch:

Tình hình du lịch trong tháng có tiến triển so với những tháng trước, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước vẫn chưa phục hồi. Việc đẩy mạnh kích cầu nội địa và quảng bá hình ảnh Bình Thuận là điểm đến an toàn - thân thiện - hấp dẫn, được kỳ vọng sẽ từng bước tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, dịch vụ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Dự ước trong tháng 7 các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 116,2 ngàn lượt khách, tăng 4,34% so với tháng trước và giảm 77,59% so với tháng cùng kỳ; số ngày khách phục vụ đạt 224,2 ngàn ngày khách, tăng 5,4% so với tháng trước và giảm 74,51% so với tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 7 tháng, ước đạt 1.664,7 ngàn lượt khách, giảm 52,01% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách ước đạt 2.859,6 ngàn ngày khách, giảm 49,94% so với cùng kỳ năm trước.

Lượng khách quốc tế đến tỉnh trong tháng 7 đạt thấp, chỉ đạt 3,12 ngàn lượt khách, tăng 1,69% so với tháng trước và giảm 94,76% so với cùng kỳ. Luỹ kế 7 tháng, khách quốc tế đến tỉnh 158,6 ngàn lượt khách, giảm 63,68% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ đạt 530,7 ngàn ngày khách, giảm 59,82% cùng kỳ năm trước.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 7 ước đạt 486,8 tỷ đồng, tăng 4,27% so với tháng trước và giảm 61,2% so với cùng kỳ năm trước; luỹ kế 7 tháng, ước đạt 5.127 tỷ đồng, giảm 40,97% so với cùng kỳ năm trước.

3. Xuất, nhập khẩu:

Sau dịch, các hoạt động xuất khẩu hàng hoá của tỉnh có nhiều cố gắng để phục hồi, các doanh nghiệp đã tìm được các hợp đồng xuất khẩu để duy trì hoạt động của doanh nghiệp.

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 7 ước đạt 37,6 triệu USD, tăng 3,84% so với tháng trước và giảm 7,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 14,29 triệu USD, giảm 5,14% so với tháng trước và tăng 7,94% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,12 triệu USD, tăng 3,84% so với tháng trước và tăng 20,92% so với cùng kỳ; nhóm hàng hóa khác ước đạt 22,16 triệu USD, tăng 10,59% so với tháng trước và giảm 16,72% so với cùng kỳ.

Luỹ kế 7 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 252,6 triệu USD, giảm 0,91% so với cùng kỳ. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 84,61 triệu USD, tăng 12,36% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông sản ước đạt 7,09 triệu USD, tăng 18,24% so với cùng kỳ (mặt hàng cao su tính đến thời điểm hiện tại vẫn không xuất khẩu được; mặt hàng rau quả 7 tháng tăng khá so với cùng kỳ, trong đó nổi lên những tháng gần đây xuất khẩu trái sầu riêng đi thị trường Hồng Kông và Đài Loan nguồn hàng mua vào chủ yếu ở các tỉnh Tiền Giang, Long Khánh, Đắc Lắc); nhóm hàng hóa khác ước đạt 160,89 triệu USD, giảm 7,33% so với cùng kỳ (nhóm hàng này bị ảnh hưởng chủ yếu bởi mặt hàng dệt may, giày dép, đế giày).

+ Xuất khẩu trực tiếp 7 tháng đạt 241,67 triệu USD (giảm 0,99% so với cùng kỳ năm trước). Thị trường xuất khẩu chủ yếu thị trường Châu Á ước đạt 161,09 triệu USD, giảm 1,82% so với cùng kỳ năm trước; xuất sang thị trường Châu Âu đạt 36,42 triệu USD, tăng 23,70% so với cùng kỳ năm trước; xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 41,46 triệu USD, giảm 11,86% so với cùng kỳ năm trước.

+ Uỷ thác xuất khẩu 7 tháng năm 2020 ước đạt 10,91 triệu USD, tăng 0,85% so với cùng kỳ (chủ yếu tăng ở mặt hàng mực tươi và hàng dệt may khác).

          - Nhập khẩu 7 tháng ước đạt 400,1 triệu USD giảm 39,78% so với cùng kỳ (giảm ở các mặt hàng như máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, vải, nguyên liệu dệt may, da giày).

 

4. Giao thông vận tải:

Trong tháng, hoạt động giao thông vận tải tiếp tục ổn định, tuy nhiên vẫn còn giảm sâu so với cùng kỳ. Giao thông đường biển từ đất liền ra đảo Phú Quý và ngược lại được cải thiện, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại và vận chuyển của người dân.

- Vận tải hành khách:

+ Ước tháng 7 đã vận chuyển 865,5 nghìn hành khách và luân chuyển 44,4 triệu hk.km. Lũy kế 7 tháng, vận chuyển 9.135,2 nghìn nh khách, giảm 39,74% so cùng kỳ và luân chuyển 460,4 triệu hk.km, giảm 38,97% so cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 7 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 855,7 nghìn hành khách; lũy kế 7 tháng đạt 9.070,8 nghìn hành khách, giảm 39,68% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 9,8 nghìn hành khách; lũy kế 7 tháng đạt 64,4 nghìn hành khách, giảm 47,31% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 43,3 triệu hk.km, lũy kế 7 tháng đạt 453,3 triệu hk.km, giảm 38,79% so với cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1,09 triệu hk.km, lũy kế 7 tháng đạt 7 triệu hk.km, giảm 48,62% so với cùng kỳ năm trước.

- Vận tải hàng hoá:

+ Ước tháng 7 vận chuyển hàng hoá đạt 507,1 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 27,3 triệu tấn.km. Lũy kế 7 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 4.396,8 nghìn tấn hàng hoá, giảm 25,52% so với cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 236,6 triệu tấn.km, giảm 28,95% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 7 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 506,6 nghìn tấn, lũy kế 7 tháng đạt 4.366 nghìn tấn, giảm 25,51% so với cùng kỳ; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,5 nghìn tấn, lũy kế 7 tháng đạt 3,7 nghìn tấn, giảm 32,89% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 27,241 triệu tấn.km, lũy kế 7 tháng đạt 236,2 triệu tấn.km, giảm 28,94% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 54,55 nghìn tấn.km, lũy kế 7 tháng đạt 421,18 nghìn tấn.km, giảm 32,71% so với cùng kỳ năm trước.

         - Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 7 ước đạt 50.000 tấn; lũy kế 7 tháng, đạt 372.404 tấn (trong đó khối lượng bốc xếp ngoài nước đạt 1.102 tấn). Các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, gạch pallet, xi măng,... Ước doanh thu 7 tháng đạt 17,23 tỷ đồng.

 

 

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 7 đạt 121.202,6 triệu đồng, tăng 5,0% so với tháng trước và giảm 37,51% so với cùng kỳ; luỹ kế 7 tháng ước đạt 980.458,6 triệu đồng, giảm 28,95% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 377.789 triệu đồng, giảm 36,52% so với cùng kỳ; Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 580.784,6 triệu đồng, giảm 23,09% so với cùng kỳ; Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 21.885 triệu đồng, giảm 25,98% so với cùng kỳ.

5. Bưu chính, viễn thông:

Hạ tầng bưu chính, mạng viễn thông tiếp tục được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Tổng số điểm giao dịch bưu chính viễn thông 1.170 điểm. Số thuê bao điện thoại cố định 34.1600 thuê bao; điện thoại di động trả sau 31.920 thuê bao. Tổng số thuê bao Internet các loại 134.170 thuê bao; tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) đạt 60,75%.

V. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách:

Tiếp tục trong tháng 7, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa đều ở mức thấp; việc triển khai các giải pháp tài khóa nhằm phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân đã tác động lớn đến cân đối thu, chi ngân sách của tỉnh.

- Thu ngân sách tháng 7 ước đạt 430 tỷ đồng. Lũy kế 7 tháng đạt 5.602,29 tỷ đồng, đạt 52,11% dự toán năm, giảm 32,22% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 4.145,42 tỷ đồng, đạt 54,19% dự toán năm, giảm 26,55%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 3.562,44 tỷ đồng, đạt 53,19% dự toán năm, giảm 25,13%; thu tiền nhà, đất 582,98 tỷ đồng, đạt 61,17% dự toán năm, giảm 34,18% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 321,2 tỷ đồng, đạt 45,89% dự toán năm, giảm 50,09%); thu dầu thô 692,94 tỷ đồng, đạt 53,30% dự toán năm, giảm 39,48% và thu thuế xuất nhập khẩu 763,92 tỷ đồng, đạt 42,44% dự toán năm, giảm 48,28% so cùng kỳ năm trước.

Dự ước các khoản thu 7 tháng đầu năm 2020 tăng (giảm) so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 565,71 tỷ đồng (giảm 39,52%), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 590,13 tỷ đồng (giảm 17,49%), thu ngoài quốc doanh 634,60 tỷ đồng (giảm 34,89%), thuế thu nhập cá nhân 344,04 tỷ đồng (giảm 15,53%), thuế bảo vệ môi trường 279,77 tỷ đồng (giảm 20,74%); lệ phí trước bạ 147,38 tỷ đồng (giảm 43,52%); thu từ các loại phí, lệ phí 102,09 tỷ đồng (tăng 5,81%); thu khác ngân sách 114,60 tỷ đồng (giảm 55,77%); thu xổ số kiến thiết 733,38 tỷ đồng (tăng 7,83%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 35,53 tỷ đồng (giảm 47,10%); thu tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 4,89 tỷ đồng (giảm 36,29%), thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 256,69 tỷ đồng (tăng 11,50%); thu tiền sử dụng đất 321,20 tỷ đồng (giảm 50,09%); thu từ dầu thô 692,94 tỷ đồng (giảm 39,48%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 763,92 tỷ đồng (giảm 48,28%).

- Chi ngân sách: Trong tháng 7 ước thực hiện 400 tỷ đồng; lũy kế 7 tháng 8.248,29 tỷ đồng; trong đó, chi đầu tư phát triển 2.678,77 tỷ đồng, chi thường xuyên 3.168,04 tỷ đồng.

3. Hoạt động tín dụng:

Trong tháng, tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ khắc phục thiệt hại trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn, tạo nguồn cho vay đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, người dân, trong đó tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu…

- Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng dịch Covid-19, tính đến 30/6/2020, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 549 tỷ đồng, chiếm 0,89% tổng dư nợ, tăng 0,32% so với đầu năm.  Đến ngày 15/7/2020, đã giảm lãi vay cho 2.706 khách hàng với số tiền lãi được giảm là 1,04 tỷ đồng. Cùng với việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và miễn, giảm lãi vay, các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, triển khai thực hiện các chương trình cho vay mới với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra, doanh số cho vay mới bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh từ ngày 23/01/2020 là 7.483 tỷ đồng/3.496 khách hàng.

- Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 3,8-4,25%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng là 4,9-7,5%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên là 6,5-8%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 6%/năm), các lĩnh vực khác từ 7-9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-12%/năm.

- Hoạt động huy động vốn (tính đến ngày 30/6/2020), nguồn vốn huy động đạt 40.141 tỷ đồng, tăng 2,91% so với đầu năm. Ước tính đến ngày 31/7/2020, vốn huy động đạt 40.643 tỷ đồng, tăng 4,2% so với đầu năm.

- Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Tính đến 30/6/2020, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 62.020 tỷ đồng, tăng 5,15% so với đầu năm. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 60.903 tỷ đồng, chiếm 98,2% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 33.640 tỷ đồng, chiếm 54,2% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm 3,9% tổng dư nợ; lãi suất từ 6-7%/năm chiếm 9,6% tổng dư nợ; lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 21,7% tổng dư nợ; lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 58,5% tổng dư nợ; lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 8,6% tổng dư nợ. Ước đến tính đến ngày 31/7/2020, dư nợ đạt 62.877 tỷ đồng, tăng 6,6% so với đầu năm.

- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và Địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 34.604 tỷ đồng, chiếm 55,8% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 758 tỷ đồng, chiếm 1,2% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 13.902 tỷ đồng, chiếm 22,4% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.853 tỷ đồng.

- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 958,1 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 295,5 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 654,3 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 8,3 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 23 tỷ đồng/6 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 97,6 tỷ đồng/90 tàu.

- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 321 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, chăn nuôi bò sữa công nghệ cao; dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thuốc thú y, thức ăn gia súc đạt 476 tỷ đồng.

- Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh với dư nợ đạt 41,8 tỷ đồng/110 hộ.

- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 30/6/2020, trên địa bàn có 184 máy ATM (tăng 9 máy so với cuối năm 2019) và 1.644 máy POS (tăng 24 máy so với cuối năm 2019), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng trên địa bàn đã bám sát và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất huy động ngoại tệ, quy định cho vay bằng ngoại tệ, các quy định về mua bán ngoại tệ. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Nhìn chung, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 05 tháng đầu năm đạt 292,8 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 45,4 triệu USD.

VI. Lĩnh vực Văn h - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa:

Trong tháng tập trung tuyên truyền kỷ niệm Ngày Gia đình Việt nam (28/6), Ngày báo chí cánh mạng Việt Nam (21/6), Tuần lễ Biển và hải đảo, Ngày môi trường thế giới,... Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh đã tham gia Hội diễn Tiếng hát miền Đông lần thứ XIX năm 2020 tại Thành phố Hồ Chí Minh, với chủ đề “Về miền Tháp cổ” (đạt huy chương vàng giải chương trình); tham gia triển lãm ảnh nghệ thuật và tư liệu “Sắc màu miền Đông Nam Bộ” (25 ảnh); triển lãm trưng bày sản phẩm và giới thiệu trình diễn thao tác làm gốm của người Chăm tại Hội diễn Tiếng hát miền Đông lần thứ XIX năm 2020. Nhà hát ca múa nhạc Biển Xanh đã biểu diễn phục vụ chính trị 16 buổi. Đội Tuyên truyền và chiếu phim lưu động biểu diễn 13 buổi phục vụ nhân dân tại các huyện, với kịch bản “Ngáo đá”; tổ chức 119 buổi chiếu phim phục vụ nhân dân vùng sâu, miền núi, thiếu nhi, thu hút 23.800 lượt người xem.

Hoạt động Thư viện: Cấp mới 103 thẻ (thiếu nhi 25 thẻ); phục vụ 935 lượt bạn đọc (thiếu nhi 270 lượt), lượt bạn đọc truy cập website 243,52 ngàn lượt, luân chuyển 1.507 lượt tài liệu (thiếu nhi 541 lượt). Sưu tầm 95 tin, bài cho Tập thông tin tư liệu Bình Thuận, 23 tin, bài chuyên mục Thông tin kinh tế. Luân chuyển 2.200 bản sách cho Trại giam Thủ Đức. Phục vụ xe ô tô thư viện lưu động tại 18 điểm trường học, với 41.800 lượt tài liệu, thu hút 7.131 lượt bạn đọc.

Hoạt động bảo tồn, bảo tàng trong tháng đã đón 12.619 lượt khách; trong đó, 120 lượt khách nước ngoài. Lũy kế 7 tháng (tính đến 20/7/2020), đã đón 82.465 lượt khách, trong đó 12.093 lượt khách nước ngoài.

2. Thể dục thể thao:

- Thể dục, thể thao quần chúng: Tổ chức giải Bóng chuyền bãi biển toàn quốc 2x2 năm 2020. Tổ chức Giải Bóng chuyền bãi biển Nam, Nữ tỉnh Bình Thuận năm 2020 tại huyện Tuy Phong.

- Thể thao thành tích cao: Đội Điền kinh tham dự giải Cúp tốc độ thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh (đạt 01 huy chương vàng, 01 huy chương bạc, 02 huy chương đồng); Đội Judo tham dự giải vô địch trẻ toàn quốc tại Đồng Nai (đạt 2 huy chương vàng, 4 huy chương bạc, 11 huy chương đồng); Đội Vovinam tham  dự giải vô địch các đội mạnh toàn quốc tại Yên Bái (đạt 01 huy chương vàng, 01 huy chương bạc, 04 huy chương đồng). Luỹ kế 7 tháng, đạt 30 huy chương (04 huy chương vàng, 08 huy chương bạc, 18 huy chương đồng); 01 kiện tướng (đạt 2,2% so với chỉ tiêu 45), 07 vận động viên Cấp 1 (đạt 10,7% so với chỉ tiêu 65).

3. Giáo dục và Đào tạo:

Trong tháng, các trường đã tổ chức tổng kết năm học 2019 – 2020. Đã chuẩn bị tốt các khâu để tổ chức kỳ thi trung học phổ thông năm 2020 theo Quy chế tại 26 điểm trường đặt ở 26 trường phổ thông; tổng số thí sinh đăng ký dự thi 10.906 thí sinh, dự kiến với 469 phòng thi. Xét hoàn thành chương trình cấp tiểu học, công nhận tốt nghiệp Trung học cơ sở.

Đã tổ chức thi thử tốt nghiệp trung học phổ thông (ngày 09-10/7). Tổ chức coi thi, chấm thi tuyển sinh lớp 10 trường trung học phổ thông chuyên Trần Hưng Đạo; tổ chức kiểm tra sát hạch tuyển sinh vào lớp 10 trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh.

4. Y tế

Trong tháng tiếp tục triển khai đẩy mạnh các hoạt động chương trình y tế Quốc gia, không có dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra. Công tác phòng chống các bệnh xã hội, phòng chống HIV/AIDS duy trì đều. Công tác khám chữa bệnh ở các cơ sở nhà nước đáp ứng được nhu cầu phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là bệnh tay - chân - miệng ở trẻ em, bệnh sốt xuất huyết, tiêu chảy cấp và các dịch bệnh khác được tiếp tục tăng cường.

Tính đến ngày 16/7/2020, tỉnh liên tiếp 62 ngày không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm COVID-19, cả 9/9 ca nhiễm đều đã được chữa khỏi bệnh và ổ dịch liên quan đến bệnh nhân số 34 đã được khống chế hoàn toàn. 237 đối tượng Vòng 1 (F1) của 09 ca dương tính đã được cách ly tập trung và xử lý theo quy định, đều có kết quả xét nghiệm âm tính và theo dõi tại địa phương. Số tiếp xúc gần (Vòng 1) đến nay đã ghi nhận được là 356 trường hợp. Số trường hợp tiếp xúc với người tiếp xúc gần (Vòng 2) là 1.684 trường hợp. Số mẫu xét nghiệm đã lấy đến thời điểm hiện tại là 1.501 mẫu, trong đó 09 trường hợp dương tính và 1.426 trường hợp âm tính, còn lại là những trường hợp xét nghiệm lại, một số trường hợp tiếp tục lấy mẫu xét nghiệm.

Trong tháng, có 8 cas mắc sốt rét, 57 cas mắc sốt xuất huyết, 5 cas mắc tay chân miệng, tất cả không có cas tử vong. Số bệnh nhân mắc bệnh phong 5 bệnh nhân, không có bệnh nhân phát hiện mới, có 422 bệnh nhân đang quản lý và 1 bệnh nhân phong mới tàn tật độ II.

Công tác phòng chống Lao: Số bệnh nhân thu dung điều trị 146 người. Số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới 71 người.

Số nhiễm HIV mới phát hiện 7 cas (lũy kế 1.514 cas); có 3 cas chuyển AIDS mới (lũy kế 1.044 cas); không có cas tử vong (lũy kế 527 cas).

Công tác khám, chữa bệnh tiếp tục cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng đã khám 69.078 lượt khám, chữa bệnh và số bệnh nhân nội trú 9.743 người, 719 cas bệnh nhân chuyển viện và 34 ca tử vong.

Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực; trong tháng không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm. Luỹ kế 7 tháng, xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm với tổng số người mắc là 02 người; trong đó có 01 người tử vong, xác định nguyên nhân do độc tố tự nhiên từ cá nóc mú.

5. Lao động - Xã hội:

Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 1.073 lao động, tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp cho 2.112 người; Lũy kế 7 tháng (tính đến ngày 10/7/2020), số lao động giải quyết việc làm 10.399 lao động, đạt 43,33% so với kế hoạch năm. Trong đó, cho vay vốn giải quyết việc làm 560 lao động, đạt 46,67% so với kế hoạch. Tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp 6.174 người, đạt 56,13% so với kế hoạch năm; trong đó, đào tạo nghề cho lao động nông thôn 632 người, đạt 15,8% so với kế hoạch năm và bằng 51,51% so với cùng kỳ năm 2019.

Số lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp trong tháng 1.788 người; 1.862 lao động được ban hành Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp (bao gồm số tồn của tháng trước chuyển sang). Lũy kế 7 tháng, tổng số hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp 7.163 hồ sơ, tăng 17,34% so với cùng kỳ năm trước. Ban hành Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 7.014 lao động, tăng 22,53% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến ngày 10/7/2020, Quỹ Đền ơn đáp nghĩa vận động được 4,78 tỷ đồng, đạt 79,77% so với kế hoạch năm; Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh được 1,12 tỷ đồng, đạt 56,44% kế hoạch năm.

Công tác chính sách người có công: Đã tổ chức đưa 504 người có công điều dưỡng tập trung tại thành phố Đà Lạt. Trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần 12 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; trợ cấp mai táng phí 32 trường hợp; quyết định trợ cấp dụng cụ chỉnh hình 01 trường hợp, quyết định trợ cấp ưu đãi giáo dục 02 trường hợp; 02 trường hợp giới thiệu giám định y khoa nhiễm chất độc hóa học. Trợ cấp thờ cúng liệt sĩ 74 trường hợp cấp mới và đổi người thờ cúng (14 quyết định thờ cúng mới.) Ngoài ra, tiếp nhận 04 hồ sơ (gồm 02 hồ sơ liệt sĩ, 02 hồ sơ thương binh); di chuyển tỉnh ngoài 02 hồ sơ liệt sĩ, 01 hồ sơ thương binh.

Thực hiện hỗ trợ người lao động theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong tháng (tính từ 15/6 đến 15/7/2020) đã tiếp nhận từ các huyện, thị xã, thành phố 4.232 hồ sơ của lao động đề nghị hỗ trợ, đã được chi hỗ trợ cho 03 hồ sơ người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, 177 hồ sơ người lao động bị tạm hoãn hợp đồng lao động, 2.387 hồ sơ không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm và 56 hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm với số tiền 2,76 tỷ đồng; nâng tổng số nhóm đối tượng được hỗ trợ đến ngày 15/7/2020 là 7.223 hồ sơ (129 hộ kinh doanh, 04 người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, 177 hồ sơ người lao động bị tạm hoãn hợp đồng lao động và 6.913 lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm), với số tiền 7,4 tỷ đồng.

6. Hoạt động bảo hiểm

Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch. Công tác thu vẫn còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19, nên số tiền nợ cao (tính đến ngày 30/6/2020) đã tiếp nhận văn bản của đơn vị, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đề nghị giãn đóng, miễn đóng, miễn lãi chậm đóng, dừng đóng vào các quỹ BHXH, BHYT, BHTN; thông báo giảm 13.599 lao động, trong đó có 6.154 lao động thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động; 6.088 lao động nghỉ việc không hưởng lương, đã xác nhận 7.082 sổ BHXH để bảo lưu.

Tính đến ngày 30/6/2020, toàn tỉnh có 88.390 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 5,6% so với cùng kỳ; có 79.084 người tham gia BHTN, giảm 3,3% so với cùng kỳ; số người tham gia BHXH tự nguyện 4.975 người, tăng 154,3% so với cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 991.933 người, tăng 3,3% so với cùng kỳ. Đã xét duyệt, giải quyết cho 30.137 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 0,9% so với cùng kỳ. Trong đó hưởng các chế độ BHXH dài hạn 557 lượt  người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 6.299 lượt người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 17.263 lượt người; hưởng trợ cấp BHTN 6.018 lượt người, tăng 65,1% so với cùng kỳ 2019. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 85,7% dân số.

Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng đến đầu tháng 7/2020, BHXH tỉnh quản lý là 15.524 người.

Kịp thời triển khai  thực hiện chỉ đạo của BHXH Việt Nam về việc chủ động phát hiện, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN; qua đó đã yêu cầu BHXH các huyện, thị xã, các phòng  nghiệp vụ có liên quan và  Bưu điện tỉnhrà soát và thực hiệntheo chỉ đạo.

 Toàn tỉnh thu được 1.168,8 tỷ đồng (tính đến ngày 30/6/2020), đạt 45,6% kế hoạch, tăng 4,7% so với cùng kỳ. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 119,9 tỷ đồng, tăng 32,9% so với cùng kỳ năm trước.

7. Tai nạn giao thông (từ 15/6-14/7/2020):

- Số vụ tai nạn giao thông 28 vụ, so với tháng trước tăng 3 vụ và so với cùng kỳ năm trước giảm 20 vụ. Luỹ kế 7 tháng 175 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), so với cùng kỳ năm trước giảm 67 vụ.

- Số người bị thương 15 người, tăng 4 người so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước giảm 21 người. Luỹ kế 7 tháng 107 người, giảm 63 người so với cùng kỳ năm trước.

- Số người chết 17 người, giảm 1 người so với tháng trước và giảm 8 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 7 tháng 102 người (trong đó đường sắt 01), so với cùng kỳ giảm 41 người.

Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra và tập trung trên tuyến quốc lộ 1A, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, đi không đúng phần đường, làn đường, chuyển hướng sai quy định, không nhường đường, lái xe đã uống rượu bia,... ngoài ra còn có các nguyên nhân khác và do người đi bộ gây ra. Thực hiện Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt” các vụ tai nạn liên quan đến rượu, bia khi tham gia giao thông đã giảm đáng kể. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, người dân thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch, hạn chế ra đường và ở nhà nên cũng góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.

Ngày 21/7/2020, tại Km1767 trên tuyến Quốc lộ 1A, đã xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng giữa xe ôtô khách và xe tải, làm chết 8 người, bị thương 7 người (thuộc xã Tân Đức, huyện Hàm Tân). Chưa thống kê vào bảng số liệu.

8. Thiên tai, cháy nổ:

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 02 vụ thiên tai (01 vụ tại Huyện Hàm Thuận Nam; 01 vụ tại huyện Tánh Linh). Lũy kế 7 tháng 10 vụ thiên tai, 01 người chết, ước tổng thiệt 2,53 tỷ đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 05 vụ cháy (tăng 1 vụ so với cùng kỳ), không thiệt hại về người, không xảy ra nổ; Ước thiệt hại ban đầu khoảng 2,2 tỷ. Lũy kế 7 tháng có 57 vụ cháy, tăng 2,1 lần số vụ so với cùng kỳ; tổng thiệt hại hơn 10 tỷ đồng, tăng 7,7 lần so với cùng kỳ.

          - Vi phạm môi trường: Trong tháng không có vụ nào xảy ra (giảm 07 vụ so với cùng kỳ). Lũy kế 7 tháng có 14 vụ (giảm 08 vụ so với cùng kỳ), đã xử phạt 1.044 triệu đồng.

 

 

 

CTK Bình Thuận




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/