[ 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 ]

1. Hộ, nhân khẩu, lao động trên địa bàn

Qua khảo sát 1.500 hộ/6.617 nhân khẩu/4.327 lao động cho thấy bình quân/ hộ có 4,41 người, trong đó khu vực thành thị là 4,39 người; nông thôn là 4,42 người; Vùng đồng bằng có 4,38 người, trung du 4,89 người, miền núi 4,35 người, vùng cao, hải đảo 4,46 người. Số người trong độ tuổi lao động bình quân/hộ có 2,88 người, trong đó khu vực thành thị 2,98 người; nông thôn 2,84 người; vùng đồng bằng 2,95 người; trung du 3,13 người; miền núi 2,87 người; vùng cao, hải đảo 2,55 người. Như vậy số người ngoài tuổi lao động/hộ toàn tỉnh là 1,53 người; trong đó ở khu vực thành thị là 1,41 người; nông thôn là 1,58 người; đồng bằng 1,43 người; trung du 1,76 người; miền núi 1,48 người; vùng cao, hải đảo 1,91 người. Qua đó cho thấy tỷ lệ người sống phụ thuộc (số người ngoài tuổi lao động/số người trong tuổi lao động) toàn tỉnh là 0,53; trong đó ở thành thị là 0,47; nông thôn là 0,56; vùng đồng bằng: 0,48; trung du: 0,56; miền núi: 0,52; vùng cao, hải đảo: 0,75.

Chỉ tiêu này năm 2009 (qua kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở) là 0,60. Như vậy so với 2 năm trước, tỷ lệ người sống phụ thuộc của hộ đã giảm xuống. Điều này sẽ bớt đi gánh nặng cho người lao động gia đình, tạo thuận lợi cho hộ gia đình có cuộc sống khá, có tích luỹ để đầu tư­ phát triển cho những năm về sau. Đây là thời kỳ dân số vàng, là điều kiện để phát triển kinh tế xã hội từ nguồn lao động dồi dào, tuy nhiên phải có giải pháp để tạo việc làm cho người lao động. Nếu để số người trong độ tuổi lao động thiếu việc làm sẽ dễ dẫn đến tình trạng “nhàn cư vi bất thiện” kéo theo các tệ nạn xã hội gia tăng.

2. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ

Thu thập thông tin về trình độ học vấn của người từ 6 tuổi trở lên cho thấy người có trình độ tiểu học chiếm 31,7% (năm trước 32,3%); trung học cơ sở, chiếm 36,1% (năm trước 36,6%); phổ thông trung học chiếm 32,2% (năm trước 31,1%). Phân theo khu vực, theo vùng, tỷ lệ người có trình độ phổ thông trung học ở thành thị đạt 36,4% (năm trước 35,7%) nông thôn 30,2% (năm trước 28,9%); vùng đồng bằng chiếm 35,6%, trung du 33,35%, miền núi 30,3%, vùng cao, hải đảo 33,5% . Như vậy tỷ lệ người có trình độ học vấn phổ thông trung học ở thành thị cao hơn nông thôn; ở vùng đồng bằng cao hơn các vùng khác. Kết quả này là hoàn toàn phù hợp với tình hình chung của cả nước

Trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ người từ 15 tuổi trở lên giữa các khu vực, các vùng cũng khác nhau nhiều. Tỷ lệ người được đào tạo từ trung cấp nghề trở lên ở thành thị là 8,8%, trong khi ở nông thôn chỉ có 4,3%; ở vùng đồng bằng là 9,74%, trong khi ở trung du là 1,74%, ở miền núi là 4,96% và ở vùng cao, hải đảo 2,46%. Kết quả trên cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ ở khu vực thành thị, ở vùng đồng bằng đạt cao hơn khu vực nông thôn và các vùng khác. Đây cũng cho thấy cơ hội tìm việc làm của người lao động ở khu vực thành thị, vùng đồng bằng sẽ thuận lợi hơn so với ở nông thôn và các vùng khác.

3. Nhà ở, sử dụng điện, nguồn nước, vệ sinh môi trường và tiện nghi sinh hoạt

Thu thập thông tin về nhà ở năm 2011, tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố là 19,5% (năm trước 11,9%), nhà bán kiên cố 79,7% (năm trước 83,4%), nhà ở tạm 0,8% (năm trước 4,7%); trong đó:

Khu vực thành thị: tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố là 33,1% (năm trước 11,9%), nhà bán kiên cố 66,3% (năm trước 83,4%), nhà tạm và nhà khác 0,6% (năm trước 4,7%). Khu vực nông thôn: tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố là 13,1% (năm trước 11,9%), nhà bán kiên cố 86,1% (năm trước 83,4%), nhà ở tạm 0,8% (năm trước 4,7%).

Kết quả trên cho thấy chất lượng nhà ở được tiếp tục cải thiện, tỷ lệ nhà ở kiên cố tăng khá, trong đó khu vực thành thị tăng lên nhanh; tỷ lệ nhà ở tạm đã giảm khá nhiều ở 2 khu vực. Đây là kết quả của quá trình tích luỹ từ phát triển kinh tế gia đình qua nhiều năm trước đây để xây dựng, nâng cấp nhà ở cùng với sự vận động xây dựng Quỹ đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở các đối tượng chính sách trong những năm qua.

Về sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, sử dụng điện lưới, sử dụng hố xí, qua thu thập thông tin cho thấy năm 2011 tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh toàn tỉnh đạt 99,3%; tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia đạt 99,2%; toàn tỉnh còn 9,7% số hộ không có hố xí (năm trước 15,1%), trong đó ở thành thị là 2,9% (năm trước 5,2%), nông thôn 12,8% (năm trước 19,8%); vùng miền núi 11,8% (năm trước 16,9%); vùng cao, hải đảo 21,7% (năm trước 41,7%).

Về xử lý rác thải, giữ vệ sinh môi trường: tỷ lệ hộ xử lý bằng hình thức chôn lấp, đốt là 49,9% (năm trước 56,3%), trong đó thành thị 10,8% (năm trước 21,7%), nông thôn 68,3% (năm trước 72,5%), miền núi 68,1% (năm trước 77,5%); xử lý bằng hình thức vứt xuống ao hồ, sông suối 3,2% (năm trước 3,7%), trong đó thành thị 2,9% (năm trước 4,2%), nông thôn 3,3% (năm trước 3,4%). Kết quả này cho thấy việc xử lý rác thải, giữ vệ sinh môi trường ở các khu vực, các vùng đã có nhiều chuyển biến khá

Có thể nói đó là kết quả của đầu tư xây dựng hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước nhiều năm qua (phát triển điện lưới, thực hiện chương trình hệ thống nước sạch nông thôn, hệ thống thoát nước thải…).

Song song với cải thiện chất lượng nhà ở, sử dụng điện lưới, nước sạch ngày càng tăng và giữ vệ sinh môi trường; các hộ gia đình đã mua sắm thêm các thiết bị, đáp ứng tiện nghi sinh hoạt hộ gia đình. Kết quả thu thập cho thấy tỷ lệ hộ sử dụng thiết bị có giá trị cao đáp ứng sinh hoạt gia đình đã tăng hơn năm trước như: tỷ lệ hộ có tủ lạnh đạt 61,8% (năm trước 53,8%), có máy giặt 20,7% (năm trước 16,3%), có xe máy 92,4% (năm trước 86,7%), có máy vi tính 15,7% (năm trước 14,5%). Phân theo các ngành nghề chủ yếu của hộ cho thấy tỷ lệ có tủ lạnh ở hộ nông lâm nghiệp thấp so với các hộ ở ngành nghề khác; tỷ lệ có xe máy ở hộ thuỷ sản, hộ làm thuê thấp hơn so với những hộ ở ngành nghề khác. Các thiết bị: máy giặt, máy vi tính tập trung nhiều ở khu vực thành thị và các hộ thương nghiệp, công nghiệp-TTCN, thương nghiệp, dịch vụ, hộ CBCC làm công ăn lương. Tỷ lệ hộ có ti vi, đầu đĩa, dàn nghe nhạc… (thiết bị tiếp cận thông tin, sinh hoạt văn hoá hàng ngày) nhìn chung không có chênh lệch xa giữa các loại hộ và các vùng. Đáng chú ý là ở khu vực nông thôn, tỷ lệ hộ sử dụng các thiết bị đã thay đổi khá nhiều; tỷ lệ hộ có tủ lạnh năm 2011 đạt 56,1% (năm trước 47,7%), có máy điều hòa nhiệt độ 2,25% (năm trước 2%), có máy vi tính 13,1% (năm trước 11,3%), có xe máy 92,9% (năm trước 85,8%).

Do tỷ lệ hộ có thiết bị, tiện nghi sinh hoạt gia đình được tăng hơn trước, trong đó các thiết bị có giá trị cao được tăng lên khá nhiều nên trị giá đồ dùng lâu bền/hộ năm 2011 ở các khu vực, các vùng đã tăng khá. Trị giá đồ dùng lâu bền bình quân/hộ đạt 35,7 triệu đồng (năm trước 29,1 triệu đồng), trong đó hộ thành thị đạt 36,4 triệu đồng (năm trước 32,2 triệu đồng), hộ nông thôn đạt 35,4 triệu đồng (năm trước 27,6 triệu đồng). Phân theo ngành nghề cho thấy hộ thương nghiệp có trị giá đồ dùng lâu bền đạt cao nhất (56,3 triệu đồng/hộ); kế đến là hộ công nghiệp -TTCN (44,4 triệu đồng), hộ làm công ăn lương (39 triệu đồng); hộ dịch vụ (34,3 triệu đồng); hộ thủy sản (34 triệu đồng); hộ nông lâm nghiệp (27,5 triệu đồng). Phân theo vùng, cho thấy hộ sinh sống ở vùng đồng bằng có trị giá đồ dùng lâu bền đạt cao nhất (39,4 triệu đồng); kế đến là hộ miền núi (35,8 triệu đồng); trung du (32,4 triệu đồng); thấp nhất là ở vùng cao, hải đảo (26,2 triệu đồng).

Không những tỷ lệ hộ sử dụng thiết bị, tiện nghi phục vụ sinh hoạt tăng hơn năm trước; số lượng đồ dùng trong hộ cũng tăng thêm khá. Năm 2011, bình quân 100 hộ gia đình có 63 tủ lạnh (năm trước 54 cái); 155 chiếc xe máy (năm trước 140 chiếc); 17 bộ máy vi tính (năm trước 15 bộ). Đây là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế, hộ gia đình làm ăn biết tích lũy nên đã mua sắm thêm các trang thiết bị, đồ dùng gia đình…. đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ngày càng tăng.

Đầu trang | Trang trước | Tiếp theo