[ 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 ]

4. Thu nhập của hộ gia đình

Cùng với kết quả thay đổi về nhà ở, môi trường sống, tiện nghi sinh hoạt, năm 2011 thu nhập của các tầng lớp dân cư trong tỉnh tiếp tục tăng hơn năm trước. Kết quả điều tra cho thấy, thu nhập bình quân 1 người/tháng đạt 1,804 triệu đồng (năm trước 1,341 triệu đồng), trong đó thành thị 2,068 triệu đồng (năm trước 1,544 triệu đồng); nông thôn 1,681 triệu đồng (năm trước 1,246 triệu đồng). Như vậy mức tăng của 2 khu vực khá đều nhau.

Phân theo vùng cho thấy hộ sinh sống ở vùng đồng bằng đạt 2,250 triệu đồng (năm trước 1,566 triệu đồng); trung du 1,777 triệu đồng (năm trước 1,602 triệu đồng); miền núi 1,688 triệu đồng (năm trước 1,235 triệu đồng); vùng cao, hải đảo 1,232 triệu đồng (năm trước 1,082 triệu đồng). Như vậy tốc độ tăng thu nhập của hộ ở vùng đồng bằng, vùng miền núi là khá đều; vùng trung du có tốc độ tăng thấp nhất.

Phân theo ngành nghề SXKD chính của hộ: hộ thương nghiệp đạt 2,4 triệu đồng/người/tháng (năm trước 1,84 triệu đồng); hộ công nghiệp-TTCN 2,14 triệu đồng (năm trước 1,52 triệu đồng); hộ thủy sản 2,09 triệu đồng (năm trước 1,63 triệu đồng); hộ CBCC, làm công ăn lương 1,9 triệu đồng (năm trước 1,37 triệu đồng); hộ dịch vụ 1,85 triệu đồng (năm trước 1,61 triệu đồng); hộ xây dựng 1,52 triệu đồng (năm trước 1,44 triệu đồng); hộ nông lâm nghiệp 1,45 triệu đồng (năm trước 993 ngàn đồng). Như vậy tốc độ tăng thu nhập của hộ dịch vụ và hộ xây dựng chậm hơn so với hộ thương nghiệp, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thủy sản.

Kết quả trên cũng cho thấy thu nhập bình quân/người ở khu vực thành thị gấp 1,23 lần so với nông thôn (năm trước gấp 1,24 lần); vùng trung du gấp 1,44 lần miền núi (năm trước gấp 1,3 lần); vùng đồng bằng gấp 1,82 lần so với vùng cao, hải đảo (năm trước gấp 1,45 lần). Như vậy so với năm trước, khoảng cách chênh lệch về mức thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn không có thay đổi nhiều nhưng giữa các vùng địa lý thì mức chênh lệch xa hơn.

Xét về từng mức thu nhập bình quân/người/tháng trong từng khu vực, từng vùng cho thấy cơ cấu theo từng nhóm thu nhập giữa 2 năm như sau:

- Khu vực thành thị:

Thu nhập từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống chiếm 11,46% (năm trước 30,21%); từ trên 1 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng 17,5% (năm trước 30,21%); từ trên 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng 28,13% (năm trước 18,96%); từ trên 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng 29,38% (năm trước 16,25%); trên 3 triệu đồng 13,54% (năm trước 4,38%).

Như vậy cơ cấu số hộ có thu nhập từ 1,5 triệu đồng/người/tháng trở xuống đã giảm khá lớn (năm 2010 chiếm 60,4%; năm 2011 chiếm 29%); cơ cấu hộ có thu nhập trên 1,5 triệu đồng tăng lên (năm 2010 chiếm 39,6%; năm 2011 chiếm 71%), trong đó cơ cấu hộ đạt trên 3 triệu đồng/người/tháng tăng nhanh (năm 2010 chiếm 4,38%; năm 2011 chiếm 13,54%)

- Khu vực nông thôn:

Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống chiếm 28,04% (năm trước 51,28%); từ trên 1 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng 26,76% (năm trước 20,98%); từ trên 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng 17,16% (năm trước 13,43%); từ trên 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng 17,16% (năm trước 10,10%); trên 3 triệu đồng 10,88% (năm trước 4,21%).

Như vậy cơ cấu số hộ có thu nhập từ 1,0 triệu đồng/người/tháng trở xuống đã giảm khá lớn (năm 2010 chiếm 51,28%; năm 2011 chiếm 28,04%); cơ cấu hộ có thu nhập trên 1,0 triệu đồng tăng lên (năm 2010 chiếm 48,72%; năm 2011 chiếm 71,96%), trong đó cơ cấu hộ đạt trên 3 triệu đồng/người/tháng tăng nhanh (năm 2010 chiếm 4,21%; năm 2011 chiếm 10,88%)

- Vùng đồng bằng:

Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống chiếm 7,44% (năm trước 24,63%); từ trên 1 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng 13,59% (năm trước 27,69%); từ trên 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng 26,92% (năm trước 22,82%); từ trên 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng 35,38% (năm trước 20,26%); trên 3 triệu đồng 16,67% (năm trước 4,61%)

Như vậy cơ cấu số hộ có thu nhập từ 1,5 triệu đồng/người/tháng trở xuống đã giảm khá lớn (năm 2010 chiếm 52,32%; năm 2011 chiếm 21,03%); cơ cấu hộ có thu nhập trên 1,5 triệu đồng tăng lên (năm 2010 chiếm 47,68%; năm 2011 chiếm 78,97%), trong đó cơ cấu hộ đạt trên 3 triệu đồng/người/tháng tăng nhanh (năm 2010 chiếm 4,61%; năm 2011 chiếm 16,67%).

- Vùng trung du:

Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống chiếm 10% (năm trước 26,67%); từ trên 1 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng 29,17% (năm trước 39,17%); từ trên 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng 30% (năm trước 14,17%); từ trên 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng 23,33% (năm trước 15,83%); trên 3 triệu đồng 7,5% (năm trước 4,17%).

Như vậy cơ cấu số hộ có thu nhập từ 1,5 triệu đồng/người/tháng trở xuống đã giảm khá lớn (năm 2010 chiếm 65,84%; năm 2011 chiếm 39,37%); cơ cấu hộ có thu nhập trên 1,5 triệu đồng tăng lên (năm 2010 chiếm 34,16%; năm 2011 chiếm 60,63%), trong đó cơ cấu hộ đạt trên 3 triệu đồng/người/tháng tăng nhanh (năm 2010 chiếm 4,17%; năm 2011 chiếm 7,5%).

- Vùng miền núi:

Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống chiếm 26,78% (năm trước 53,11%); từ trên 1 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng 27,93% (năm trước 21,95%); từ trên 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng 18,05% (năm trước 12,41%); từ trên 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng 16,21% (năm trước 8,39%); trên 3 triệu đồng 11,03% (năm trước 4,13%).

Như vậy cơ cấu số hộ có thu nhập từ 1,0 triệu đồng/người/tháng trở xuống đã giảm khá lớn (năm 2010 chiếm 53,11%; năm 2011 chiếm 26,78%); cơ cấu hộ có thu nhập trên 1,0 triệu đồng tăng lên (năm 2010 chiếm 46,89%; năm 2011 chiếm 73,22%), trong đó cơ cấu hộ đạt trên 3 triệu đồng/người/tháng tăng nhanh (năm 2010 chiếm 4,13%; năm 2011 chiếm 11,03%)

- Vùng cao, hải đảo:

Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống chiếm 55,83% (năm trước 65%); từ trên 1 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng 21,67% (năm trước 10,83%); từ trên 1,5 triệu đồng đến 2 triệu đồng 10% (năm trước 11,67%); từ trên 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng 7,5% (năm trước 8,33%); trên 3 triệu đồng 5% (năm trước 4,17%).

Như vậy cơ cấu số hộ có thu nhập từ 1,0 triệu đồng/người/tháng trở xuống giảm nhẹ (năm 2010 chiếm 65%; năm 2011 chiếm 55,83%); cơ cấu hộ có thu nhập trên 1,0 triệu đồng tăng lên (năm 2010 chiếm 35%; năm 2011 chiếm 44,17%), trong đó cơ cấu hộ đạt trên 3 triệu đồng/người/tháng tăng nhẹ (năm 2010 chiếm 4,17%; năm 2011 chiếm 5,0%).

Từ kết quả trên cho thấy cơ cấu số hộ có thu nhập bình quân từ 1,5 triệu đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành thị, vùng đồng bằng, trung du đã giảm rất nhiều, thay vào đó là hộ có mức thu nhập bình quân trên 1,5 triệu đồng/người/tháng tăng khá. Đáng chú ý là mức thu nhập trên 3 triệu đồng/người /tháng tăng khá cao ở khu vực thành thị và vùng đồng bằng. Ở khu vực nông thôn, vùng miền núi thì cơ cấu số hộ có thu nhập bình quân từ 1,0 triệu đồng/người/tháng trở xuống giảm khá nhiều, thay vào đó là hộ có mức thu nhập bình quân trên 1,0 triệu đồng/người/tháng tăng khá; hộ có thu nhập trên 3 triệu đồng/người /tháng cũng tăng nhưng mức tăng thấp so với thành thị, đồng bằng. Ở vùng cao, hải đảo cơ cấu số hộ có mức thu nhập từ 1,0 triệu đồng/người/tháng trở xuống cũng giảm nhẹ; hộ có thu nhập trên 3 triệu đồng/người /tháng tăng ít hơn so với các vùng khác.

Nhìn chung, tuy cơ cấu số hộ có mức thu nhập bình quân trên 1,5 triệu đồng/người/tháng có thay đổi theo hướng tăng lên, song ở các khu vực, các vùng còn chênh lệch khá xa. Ở thành thị 71,04%, trong khi ở nông thôn 45,2%; ở vùng đồng bằng 78,97%, ở trung du 60,83%, trong khi ở miền núi 45,29% và ở vùng cao, hải đảo 22,50%. Điều này cho thấy hộ có mức thu nhập khá, cao tập trung nhiều ở khu vực thành thị, đồng bằng.

Thông qua kết quả thu nhập, nếu tính chung cả khu vực thành thị và nông thôn và xếp theo độ dốc từ cao xuống thấp và phân theo 5 nhóm thu nhập (mỗi nhóm chiếm 20% trong tổng số hộ điều tra) cho thấy toàn tỉnh nhóm có thu nhập cao nhất bình quân đạt 3,777 triệu đồng/người/tháng (năm trước 2,949 triệu đồng/tháng), gấp 6,2 lần nhóm thấp nhất (năm trước gấp 6,43 lần). Phân theo vùng cho thấy như sau:

+ Vùng đồng bằng: Nhóm cao nhất đạt 3,764 triệu đồng/người/tháng, gấp 7,2 lần nhóm thấp nhất (năm 2010: gấp 5,1 lần)

+ Vùng trung du: Nhóm cao nhất đạt 3,207 triệu đồng/người/tháng, gấp 4,8 lần nhóm thấp nhất (2010: gấp 7,1 lần)

+ Vùng miền núi: Nhóm cao nhất đạt 3,822 triệu đồng/người/tháng, gấp 5,9 lần nhóm thấp nhất (2010: gấp 6,9 lần)

+ Vùng cao, hải đảo: Nhóm cao nhất đạt 4,409 triệu đồng/người/tháng, gấp 8,5 lần nhóm thấp nhất (2010: gấp 6,5 lần).

Như vậy mức chênh lệch giữa nhóm hộ có thu nhập cao nhất so với nhóm hộ thấp nhất ở vùng trung du, miền núi năm 2011 có thu hẹp so với năm trước; điều này cho thấy nhóm hộ có thu nhập thấp nhất đã có một chút cải thiện về thu nhập. Song ở vùng đồng bằng, vùng núi cao, hải đảo nhờ vào điều kiện thuận lợi sẵn có, nhóm hộ có thu nhập cao đã tiếp tục phát huy trong sản xuất kinh doanh, thu nhập tăng thêm, bỏ xa nhóm hộ có thu nhập thấp. Đây là điều kiện tất yếu.

Nếu phân theo khu vực và xét trong từng nhóm thu nhập sẽ cho thấy mức chênh lệch như sau:

+ Nhóm 1 (cao nhất): Ở thành thị là 4,208 triệu đồng/người/tháng, gấp 1,18 lần so với nông thôn (năm trước gấp 1,19 lần).

+ Nhóm 2: Ở thành thị là 2,360 triệu đồng/người/tháng, gấp 1,21 lần so với nông thôn (năm trước gấp 1,21 lần).

+ Nhóm 3: Ở thành thị là 1,844 triệu đồng/người/tháng, gấp 1,29 lần so với nông thôn (năm trước gấp 1,35 lần).

+ Nhóm 4: Ở thành thị là 1,501 triệu đồng/người/tháng, gấp 1,44 lần so với nông thôn (năm trước gấp 1,46 lần).

+ Nhóm 5 (thấp nhất): Ở thành thị là 858 ngàn đồng/người/tháng, gấp 1,53 lần so với nông thôn (năm trước gấp 1,67 lần).

Như vậy cũng như năm trước, nhóm hộ có thu nhập càng thấp thì mức chênh lệch thu nhập giữa 2 khu vực càng cách nhau càng xa.

Phân theo nhóm và khu vực cũng cho thấy nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị so với mức thấp nhất ở nông thôn chênh lệch gấp 7,5 lần (năm trước gấp 8,2 lần.

Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, kết hợp với sự biến động giá tiêu dùng (tác động trực tiếp đến đời sống dân cư); nếu phân nhóm hộ dựa vào kết quả thu nhập bình quân người/tháng, cho thấy các kết quả sau đây:

- Hộ có mức sống cao

(Thành thị: Thu nhập từ trên 4,8 triệu đồng; Nông thôn từ trên 3,6 triệu đồng trở lên)

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống cao là 5,53%; trong đó thành thị 4,38%, nông thôn 6,08% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống cao là 3,66%; trong đó thành thị 2,5%, nông thôn 4,21%)

- Hộ có mức sống khá

(Thành thị: Thu nhập từ trên 2,4 triệu đồng – 4,8 triệu đồng; Nông thôn từ trên 1,8 triệu đồng - 3,6 triệu đồng).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống khá là 26,93%; trong đó thành thị 23,96%, nông thôn 28,33% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống khá là 21,8%; trong đó thành thị 18,13%, nông thôn 23,53%)

- Hộ có mức sống trung bình

(Thành thị: Thu nhập từ trên 1,8 triệu đồng - 2,4 triệu đồng; Nông thôn từ trên 1,2 triệu - 1,8 triệu đồng).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống trung bình là 26,73%; trong đó thành thị 23,75%, nông thôn 28,14% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống trung bình là 20,33%; trong đó thành thị 18,96%, nông thôn 20,98%)

- Hộ có mức sống dưới trung bình

(Thành thị: Thu nhập từ trên 1,2 triệu đồng - 1,8 triệu đồng; Nông thôn từ trên 780 ngàn đồng - dưới 1,2 triệu đồng).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình là 22,93%; trong đó thành thị 32,92%, nông thôn 18,24% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình là 26,8%; trong đó thành thị 30,21%, nông thôn 25,2%)

- Hộ có mức sống thấp

(Thành thị: Thu nhập từ 1,2 triệu đồng trở xuống; Nông thôn từ 780 ngàn đồng trở xuống).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống thấp là 17,87%; trong đó thành thị 15,0%, nông thôn 19,22% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống thấp là 27,4%; trong đó thành thị 30,21%, nông thôn 26,08%)

Trong đó Hộ nghèo (theo mức chuẩn: thành thị từ 500 ngàn đồng trở xuống; nông thôn từ 400 ngàn đồng trở xuống). Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ nghèo còn 7,80%; trong đó thành thị 6,46%, nông thôn 8,43% (năm 2010: tỷ lệ hộ nghèo còn 9,33%; trong đó thành thị 3,96%, nông thôn 11,8%).

Như vậy so với năm trước, tỷ lệ hộ có mức sống cao, mức sống khá, mức sống trung bình đã tăng lên cả 2 khu vực; tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình, mức sống thấp, hộ nghèo giảm khá nhiều. Điều đó cho thấy thu nhập của các tầng lớp dân cư được tăng lên.

Đầu trang | Trang trước | Tiếp theo